Thứ 6, 26/4/2024 Tin tức & Sự kiện  > Thông tin y học

Bệnh thuỷ đậu (Varicella hay chickenpox)

02/11/2009 14:48 GMT+7

Bệnh thuỷ đậu là một bệnh truyền nhiễm do vi rút thuỷ đậu có tên khoa học là Varicella-zoster virus (VZV) có thể nhiễm tới 98% người ở độ tuổi trưởng thành. Nhiễm sơ phát VZV thường có triệu chứng với những mụn nước lan toả và kèm theo ngứa. Trong giai đoạn sơ phát, vi rút nhiễm và nằm trong hạch thần kinh cảm giác tạo nên nhiễm vi rút tiềm ẩn. Khi cơ thể bị giảm sức đề kháng với VZV thì chúng tái hoạt tính trong các tế bào thần kinh, chạy theo dây thần kinh đi ra ngoài da gây nên các mụn nước của bệnh Zona.

Dịch tễ học: có 90% trường hợp bệnh ở trẻ dưới 10 tuổi. Vi rút lây truyền qua hô hấp và tiếp xúc trực tiếp là chủ yếu, lây gián tiếp rất hiếm. Bệnh nhân có thể truyền vi rút vài ngày trước khi nổi các ban mụn cho đến khi mụn nước cuối cùng. Khi các mụn nước khô đóng vẩy tiết thì không lây nhiễm cho người khác. Vi rút trong mụn nước của bệnh zona cũng có thể bay vào không khí và lây truyền cho người chưa có miễn dịch và thành bệnh thuỷ đậu. Bệnh hay xảy ra vào mùa Đông Xuân. Các vi rút vào trong niêm mạc đường hô hấp trên và vùng hầu họng, chúng phát triển tăng sinh và gây nhiễm vi rút máu, tại mạch máu chúng nhân lên trong tế bào liên võng nội mạch và gây nhiễm vi rút máu lần nữa rồi mới lây nhiễm da và niêm mạc. Thường sau khi nhiễm VZV thì người bệnh có miễn dịch và không bị tái phát. Khi sức đề kháng với VZV giảm, vi rút sẽ đi từ hạch thần kinh đi ra ngoài nên người bệnh thường thấy đau trước khi xuất hiện thương tổn da. Đau dây thần kinh sau zona là do loạn dưỡng thần kinh giao cảm và sẹo dây thần kinh. Xét nghiệm phát hiện VZV có thể bầng các kỹ thuật miễn dịch, nuôi cấy vi rút, xét nghiệm dịch mụn nước. Bệnh thuỷ đậu trong nhân dân gọi là phỏng dạ hay trái dạ. Thuỷ đậu là bệnh do vi rút, lây lan rất mạnh thường thành dịch. Biểu hiện đặc trưng là các mụn nước ngứa sinh ra cùng lúc, sau đó bị bội nhiễm thành mụn mủ, rồi đóng vẩy tiết sau đó để lại sẹo, thường là sẹo lõm. Trước khi xuất hiện các thương tổn da, người bệnh có thể biểu hiện triệu chứng toàn thân như sốt, đau họng, viêm đường hô hấp trên. Một số bệnh nhân có thể bị biến chứng viêm phổi và viêm não. Thời gian ủ bệnh khoảng 14 ngày (10-23 ngày). Trước khi xuất hiện các mụn nước thuỷ đậu có thể có triệu chứng toàn thân, thường hay có ở người trưởng thành còn trẻ nhỏ biểu hiện nhẹ hơn. Các biểu hiện như sốt, nhức đầu, mệt mỏi, đau người, đau lưng nhiều. Triệu chứng da xuất hiện sớm nhất là các ban đỏ, các sẩn sau đó nhanh chóng thành các mụn nước. Trẻ nhỏ số lượng thương tổn thường ít, rải rác nhưng ở người trưởng thành thì thường nhiều thương tổn hơn, thậm chí các thương tổn mọc dày khắp cơ thể. Các mụn nước rất nhỏ như những giọt sương trên cánh hoa hồng, nông, xung quanh là quầng đỏ, ở giữa lõm như bánh dày. Mụn nước nhanh chóng thành mụn mủ và đóng vảy tiết. Có thể thấy trên người bệnh cùng lúc các thương tổn là sẩn, mụn nước, mụn mủ và vẩy tiết. Thuỷ đậu thường mọc các mụn đầu tiên ở mặt và đầu, sau đó lan xuống thân mình, các chi. Các thương tổn mọc nhiều hơn ở thân mình và mặt, ít hơn ở các chi. Bàn tay, bàn chân thường không bị mọc thương tổn. Sau khi các mụn nước đóng vẩy tiết sau khoảng 1-3 tuần sẽ bong vẩy và để lại vết đỏ tươi, lõm và có thể để lại sẹo lõm vĩnh viễn. Một số trường hợp mụn nước bị xuất huyết. Các biến chứng có thể xảy ra là nhiễm trùng tại chỗ tụ cầu, liên cầu gây nên chốc, nhọt, viêm mô tế bào và hoại thư. Niêm mạc cũng có thể có mụn nước nhưng ít và thường để lại vết chợt nông. Hay có thương tổn ở vòm miệng, nhưng cũng có thể thấy ở niêm mạc mũi, kết mạc mắt, họng, thanh quản, phế quản, đường tiêu hoá, tiết niệu và âm đạo.Những biến chứng nghiêm trọng của thuỷ đậu có thể xảy ra trên những người có suy giảm miễn dịch như dùng corticoid, các thuốc ức chế miễm dịch khác... Bệnh nhân có thể bị viêm phổi, viêm gan, viêm não, xuất huyết ...

Tiến triển của bệnh trên trẻ khoẻ mạnh thường tự khỏi. Biến chứng thường gặp là bội nhiễm tụ cầu trùng. Ngoài ra có thể có biến chứng viễm não. Người lớn thường có triệu chứng của toàn thân. Tỷ lệ bị viêm não, viêm phổi cao hơn ở trẻ em. Các biến chứng khác có thể xảy ra là viêm khớp, viêm màng bồ đào, viêm kết mạc mắt, viêm tim, viêm thận, viêm tinh hoàn...Thuỷ đậu ở người lớn nặng hơn ở trẻ em và tỷ lệ tử vong cao hơn. Phụ nữ có thai mắc thuỷ đậu trong 3 tháng đầu thai kỳ có thể gây tử vong thai nhi. Trẻ sơ sinh bị thuỷ đậu bị biến chứng viêm phổi và viêm não cao hơn trẻ lớn.

Điều trị: điều trị triệu chứng các thương tổn gây ngứa bằng kháng histamin. Các thuốc chống vi rút như acyclovir, valacyclovir phải dùng sớm 24h trước khi xuất hiện thương tổn. Trường hợp bội nhiễm dùng các thuốc bôi chống nhiễm trùng như dung dịch milian, xanh methylen, các kem kháng sinh, mỡ mupirocin và nếu cần dùng kháng sinh toàn thân. Vắc xin có hiệu quả 80% phòng các triệu chứng thuỷ đậu. Một số trường hợp tiêm vắc xin nhưng vẫn mặc bệnh nhưng thường nhẹ. Vắc xin cũng có hiệu quả làm giảm tỷ lệ mắc zona trên bệnh nhân thuỷ đậu. Hiện nay có vắc xin Okavax phòng thuỷ đậu được Bộ Y tế cho phép lưu hành tại nước ta.    

 

ThS. Minh Thu

(Theo TS. Nguyễn Duy Hưng – Viện Da liễu quốc gia)